4.9/5 - (15 votes)

Trong các cuộc gặp cấp cao của Việt Nam với các quốc gia khác cho dù là xã giao thì ta vẫn hay thấy có một nội dung trong các cuộc làm việc là đề nghị công nhận VN là quốc gia có nền kinh tế thị trường.

Tại sao việc công nhận là một quốc gia có nền kinh tế thị trường lại quan trọng?

Nếu Việt Nam không buôn bán với các nước khác thì việc công nhận hay không công nhận thì cũng chẳng có gì là quan trọng. Nhưng trong thương mại quốc tế thì muốn xuất khẩu hàng hóa sang nước khác thì phải tuân thu các luật thương mại quốc tế cũng như của riêng nước đó. Mặc dù thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho cả hai bên nhưng các nước luôn sử dụng các rào cản thuế quanphi thuế quan để bảo hộ hàng hóa trong nước chừng nào hay chừng đó.

Liên quan trực tiếp tới việc này là chống bán phá giá thuộc rào cản Phi thuế quan mà hầu như nước nào cũng có. Các quốc gia sẽ quy định một sản phẩm khi nhập khẩu vào nước đó là bán phá giá khi Y – X > t trong đó X là giá trên hợp đồng nhập khẩu, t là biên độ bán phá giá và Y được tính như sau:

  • Trường hợp 1: Giá tại VN của SP tương tự được điều tra.
  • Trường hợp 2: Giá mà VN xuất khẩu sang nước khác
  • Trường hợp 3: Giá thành sản xuất + Chi phí cần thiết + Lợi nhuận hợp lý

Khi một mặt hàng bị coi là bán phá giá thì quốc gia nhập khẩu sẽ áp một mức thuế chống bán phá giá thay vì phải tuân theo quy định của tổ chức thương mại quốc tế WTO hay các Hiệp định thương mại FTA.

Quốc gia nhập khẩu sẽ lựa chọn trường hợp để Y lớn nhất có thể. Đối với các quốc gia chưa công nhận VN là một nền kinh tế thị trường (như Mỹ và EU) thì họ sẽ lựa chọn trường hợp 3 nhưng ở một nước khác, nước có Y lớn nhất có thể. (tham khảo thêm bài Bán phá giá )

Nếu VN được công nhận là một quốc gia có nền kinh tế thị trường đầy đủ thì việc tính trường hợp 3 sẽ rất thuận lợi do mọi số liệu chi phí dễ dàng chứng minh. Còn hiện chưa được công nhận nên họ dùng chi phí ở một nước khác ta rất khó kiểm soát. Hiện rất nhiều hàng hóa của chúng ta như thép, tôn, giầy, đồ may mặc,…đang bị kiện. Bạn có thể xem danh sách đầy đủ tại đây: Danh sach hang hoa dang bi kien toi 31-12-2018

Và tất nhiên rồi, chúng ta cũng kiện chống bán phá giá một số mặt hàng nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước : Danh sach hang hoa VN kien toi 31-12-2018

Chúng ta cùng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa được công nhận có nền kinh tế thị trường?

Thị trường là gì?

Chúng ta hay nghe tới rất nhiều loại thị trường

  • Thị trường tiền tệ
  • Thị trường vốn
  • Thị trường ngoại hối
  • Thị trường bất động sản, vàng, dầu, bitcoin,…
  • Thị trường lao động
  • ……

Nhưng bản chất chỉ có 3 loại thị trường chính là:

  1. Thị trường các yếu tố đầu vào: Là nơi doanh nghiệp mua các yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm đầu ra như nhiên vật liệu, máy móc, hàng hóa sức lao động.
  2. Thị trường hàng hóa: Là nơi doanh nghiệp bán hàng hóa/dịch vụ của mình cho khách hàng cuối. Thị trường hàng hóa có thể offline như các chợ truyền thống, siêu thị và cũng có thể online như các trang thương mại điện tử. Trên các bản tin tài chính ta hay nghe tới thông tin trên thị trường chứng khoán và thông trên Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam.
  3. Thị trường tài chính: Là nơi doanh nghiệp huy động tiền phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Cá nhân vay tiền khi muốn tiêu dùng trước trả tiền sau. Thị trường tài chính bao gồm 3 thị trường là Thị trường tiền tệ (Hệ thống ngân hàng), Thị trường vốn (Thị trường chứng khoán) Thị trường ngoại hối (Trao đổi giữa các đồng tiền).

Mô hình nền kinh tế

Tương ứng với ba thị trường này mà có các tiêu chí tương ứng để đánh giá một quốc gia có nền kinh tế thị trường đầy đủ hay không. Bao gồm:

  1. Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ (Thị trường tài chính)

Tiền có 3 chức năng chính là Dự trữ giá trị, Phương tiện thanh toán và Đơn vị tính toán. Ví dụ ta có thể nhét tiền mặt vào két đề phòng lúc dùng tới (dự trữ), có thể mua hàng hóa bằng tiền (thanh toán) và biết một cái tủ lạnh mới sẽ đắt hơn một mớ rau bao nhiêu lần (đơn vị tính toán đo lường giá trị).

Đánh giá sức mạnh của một đồng tiền sẽ dựa trên 3 chức năng này. Đô la Mỹ mạnh hơn so với Việt Nam đồng vì tỷ lệ lạm phát của USD thấp hơn VNĐ (dự trữ tốt hơn), USD có thể được chấp nhận ở hầu hết quốc gia còn VNĐ thì không (thanh toán) và trên thế giới người ta dùng USD để đo độ giàu có, định giá dầu, giá vàng,….chứ ít ai dùng VNĐ.

Các đồng tiền mạnh thường được một tổ chức thứ 3 quản lý, nó độc lập so với chính phủ. Ví dụ đô la Mỹ được quản lý bởi Cục dự trữ liên bang Mỹ FED, đồng Euro được quản lý bởi Ngân hàng trung ương châu âu ECB,….Ở VN thì VNĐ được quản lý bởi Ngân hàng nhà nước nhưng NHNN lại trực thuộc chính phủ quản lý (ngang cấp bộ). Có nghĩa là đồng tiền đã được quản lý bởi chính phủ chứ không phải phụ thuộc vào cung cầu tiền của thị trường nữa. Chính phủ thực thi chính sách tiền tệ lẫn chính sách tài khóa (trong khi ở Mỹ thì thực thi chính sách tiền tệ là FED thông qua việc tăng giảm lãi suất)

Khi một chính phủ quản lý đồng tiền họ dễ lâm vào tình trạng làm tăng giảm cung tiền theo ý muốn điều hành tùy giai đoạn, mà thường là mở rộng cung tiền làm giảm giá trị đồng tiền (lạm phát). Kèm theo đó để kìm hãm lạm phát chính phủ sẽ bắt buộc người dân sử dụng đồng tiền nội tệ trong trao đổi, ngăn chặn việc chuyển đổi sang đồng tiền ngoại tệ khác. Đã có một thời kỳ chúng ta có đơn vị “tờ” và đơn vị “cây” để định giá tài sản lớn như nhà đất. Nền kinh tế lúc đó bị đô la hóa và chính phủ đã phải ra các văn bản pháp lý để ngăn cản điều này. Ngày nay việc mua/bán ngoại tệ phải thực hiện ở các tổ chức tín dụng và bạn phải có lý do chính đáng thì mới mua được; không đơn giản tẹo nào.

Việt Nam có thể bắt chước mô hình của Mỹ là để Ngân hàng nhà nước độc lập với chính phủ?

Đương nhiên là không rồi, ngay như nước láng giềng Trung Quốc to như vậy mà Nhân dân tệ vẫn được quản lý bởi nhà nước nữa là Việt Nam. Việt Nam buộc phải dùng cách khác để làm mạnh 3 chức năng trên bao gồm:

  • Kiểm soát lạm phát ở mức thấp để cho dân trong nước cũng như dân ngoài nước yên tâm sử dụng chức năng dự trữ.
  • Tự do chuyển đổi giữa nội tệ và các đồng tiền khác: Khi có nhu cầu chuyển đổi, người dân trong và ngoài nước được tự do chuyển đổi mà không gặp rào cản nào đáng kể. Vì tự do chuyển đổi nên họ mới tự tin mà nắm giữ.
  • Thị trường tài chính phải được phát triển lành mạnh, hoạt động hiệu quả: Hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối phải có đầy đủ và không bị lũng đoạn.

Và nói chung sức mạnh đồng tiền một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sức mạnh của nền kinh tế. Ta yếu nên họ mới bắt nạt ta, tự áp đặt giá Y để họ có lợi mà không sợ ta đánh trả. Cứ thử như ông Mỹ mà xem, họ đi ngược lại các quy định của WTO thì có ai dám làm gì họ không?

Tài chính và tiền tệ (P5: Chiến tranh tiền tệ là gì?)

2. Mức độ tự do thỏa thuận tiền lương giữa người quản lý và người lao động ở quốc gia đó (Thị trường lao động)

Từ trước thời điểm gia nhập WTO 2007 thì Việt Nam đã bắt đầu tham khảo các văn bản các quốc gia khác để áp cho văn bản của quốc gia mình. Điều này nhằm giảm thiếu thời gian xây dựng cũng như chỉnh sửa các văn bản pháp luật mà khi chúng ta gia nhập vào các tổ chức quốc tế thì cũng thuận lợi hơn (vì hệ thống VBPL luôn được đánh giá đầu tiên).

Điểm bất lợi của chúng ta là vừa đi vừa tìm hiểu đường chứ không theo một con đường có sẵn nào cả. Vì vậy khi áp dụng văn bản pháp lý lại phải customize sao cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Điều này dễ dẫn tới việc là văn bản pháp luật có quy định nhưng lại không áp dụng được vào thực tế.

Bộ luật lao động điều chỉnh quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động đã ban hành năm 2012 (Luật số 10/2012/QH13). Nó cũng là áp từ nước ngoài nhưng thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh VN. Trong bộ luật này, từ điều 73 tới điều 89 nói về thỏa ước lao động tập thể.

Cung cầu lao động
Người sử dụng lao động luôn muốn giảm lương và tối thiểu điều kiện làm việc trong khi người lao động muốn lương cao và đảm bảo điều kiện làm việc. Hai bên sẽ phải thỏa thuận với nhau ở một điểm cân bằng ở giữa.

Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động về điều kiện lao động mà hai bên thống nhất thông qua thương lượng tập thể. Như vậy, về mặt pháp luật thì chúng ta đã thỏa mãn tiêu chí này rồi nhưng thực tế ta thấy phạm vi áp dụng và mức độ cưỡng chế áp dụng chưa cao. Ngay cả các đơn vị hành chính sự nghiệp cũng như doanh nghiệp nhà nước còn áp dụng chỉ mang tính hình thức nói gì tới doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có khi bạn còn chưa từng nhìn tới văn bản thỏa ước lao động tập thể này mặc dù Doanh nghiệp nào cũng bắt buộc phải làm.

Ngoài thỏa ước lao động tập thể quy định về điều kiệu làm việc thì còn nhiều vấn đề nan giải đối với chúng ta:

  • Đối xử với người lao động là người khuyết tật ( Người khuyết tật chiếm 7,3% dân số VN và 15,3% theo tiêu chuẩn của tổ chức y tế thế giới WHO). Hiện lao động khỏe khoắn thừa thãi nên lao động khuyết tật không tìm được chỗ đứng trên thị trường lao động. Chúng ta đã có luật người khuyết tật năm 2010 (51/2010/QH12) trong đó quy định DN khi sử dụng LĐ khuyết tật sẽ được hưởng ưu đãi. Tuy nhiên kiếm một đồng của NN khó hơn lên trời vì vậy cơ bản là không tác động gì nhiều.
  • Phân biệt đổi xử dựa trên tuổi tác lao động: Đơn giản nhất là nhìn công nhân trong các khu công nghiệp; đa phần còn rất trẻ; khi họ lớn hơn 40 tuổi thì các công ty sẽ có xu hướng muốn thay mới vì lực lượng trẻ khỏe hơn mà cũng ít đòi hỏi hơn. Trong các yêu cầu tuyển dụng đủ mọi lĩnh vực ta sẽ đều thấy giới hạn tuổi và thường đều rất trẻ < 30 tuổi.
  • Bình đẳng giới: phụ nữ luôn bị đánh giá thấp hơn, trả lương thấp hơn vì họ thường sẽ vướng bận vào các trách nhiệm gia đình nhiều hơn đàn ông. Nhà nước cũng có quy định về tỷ lệ lãnh đạo nữ trong các đơn vị quản lý nhà nước; còn DN thì không có quy định nào cả. Cũng chỉ mới gần đây mới có quy định chị em được nghỉ 6 tháng thai sản thay vì 4 tháng như trước đây.
  • Lao động cưỡng bức và Lao động trẻ em:  Luật đã quy định về cấm lao động trẻ em nhưng thực tế thì vẫn phổ biến đặc biệt trong những ngành hàng thủ công.
  • Quyền con người: Vấn đề vi phạm quyền con người ở Việt Nam cho dù có hay không có thì ta vẫn thấy được nhắc tới trong các báo cáo quốc tế. Người ta có thể viện cớ về việc thương mại quốc tế làm giảm quyền con người để ngăn cản hàng hóa vào nước họ.

Tóm lại tiêu chí này của chúng ta chưa ổn.

Kinh tế học (P25: Thị trường lao động P1)

3. Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư nước ngoài được phép thực hiện (Thị trường Hàng hóa & Dịch vụ)

Doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam có hai hình thức là Đầu tư trực tiếp (FDI-Foreign Direct Investment) và Đầu tư gián tiếp (FII-Foreign Indirect Investment hoặc còn gọi là đầu tư theo chỉ mục FPI-Foreign Portfolio Investment). Đầu tư trực tiếp là việc DN nước ngoài mở doanh nghiệp, mua/sát nhập DN FDI khác, liên doanh liên kết với DN nội địa, mua cổ phiếu của cty trên sàn chứng khoán tới mức có thể tham gia vào các QĐ quản lý của cty. Đầu tư gián tiếp FII là việc DN hoặc cá nhân mua các tài sản tài chính của nước sở tại như trái phiếu, cổ phiếu nhưng chưa tơi mức tham gia vào các QĐ của DN.

Vậy FDI khác FII căn bản ở điều kiện là FDI có can thiệp tới các QĐ quản lý của DN; còn FII thì không. Và điểm chung là nó phụ thuộc rất lớn vào mức độ hoàn thiện của Thị trường tài chính đặc biệt là Thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán giống như một cái chợ mua bán doanh nghiệp; thị trường phát triển thì mới thu hút được giới đầu tư. TTCK VN vẫn đang xếp hạng bét là thị trường cận biên; mãi còn chưa lên nổi thị trường mới nổi.

Tỷ lệ sở hữu của công ty nước ngoài luôn là điểm khó đặc biệt với các ngành nhậy cảm như ngân hàng, năng lượng và các DN nhà nước luôn muốn phải là chủ đạo. Chính phủ VN giới hạn  tỷ lệ này mục đích để tránh DN trong nước bị nước ngoài thôn tính; điều đó là hoàn toàn hợp lý khi mà nhà nước đã quen với việc tác động sâu vào nền kinh tế thay vì chỉ tạo ra môi trường cho hoạt động KD như các nước phát triển.

Mô hình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà VN đang theo đuổi trong đó có vế “xã hội chủ nghĩa” ám chỉ phân phối lại lợi ích trong xã hội. Muốn đưa điện về vùng sâu vùng xa thì phải ép DN thực hiện do xét lợi ích kinh tế thì chắc DN điện sẽ không làm. Muốn có tiền phân bổ lại thì phải nắm được các lợi ích kinh tế thông qua các doanh nghiệp nhà nước; nếu chỉ dựa vào các khoản thu từ thuế, phí sẽ không đủ.

Tổng sản phẩm quốc nội 2017
Nhìn bảng thống kê 2017 trên ta thấy khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn = 884.090/(884.090 + 1.400.989 + 604.528) = 884.090/2.889.607 = 30,5%
Vốn đầu tư toàn xã hội
Khối tư nhân ngày càng góp tỷ trọng lớn dần trong vốn đầu tư toàn xã hội. (thống kê 2017)

Đây là tiêu chí tạm gọi là dễ nhất vì nó có thể định lượng và có thể chứng minh.

Quản trị chiến lược (P9: Hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài)

4. Mức độ sở hữu của chính phủ hoặc kiểm soát của các phương tiện sản xuất (Thị trường yếu tố đầu vào)

Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1948 do Mác- Ăng ghen soạn thảo có 10 biện pháp được nêu ra:

  1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.
  2. Áp dụng thuế lũy tiến cao.
  3. Xóa bỏ quyền thừa kế
  4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn.
  5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với nguồn vốn của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.
  6. Tập trung tất cả các phương tiện giao thông vận tải vào trong tay nhà nước.
  7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cày cấy và cải tạo ruộng đất trong một kế hoạch chung.
  8. Thực hành nghĩa vụ lao động với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp.
  9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thi hành những biện pháp làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, bằng cách phân phôi dân số cân bằng hơn trên toàn quốc.
  10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất.

Trong khi đó quan điểm chủ đạo của Kinh tế thị trường là tự do theo lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith.

Kinh tế học: Mặt đối lập của Adam Smith

Từ sau giải phóng 1975 tới trước khi nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài nhà nước là 1986 đã là 11 năm. Còn từ thành lập nước 1945 tới 1975 là 30 năm cũng theo định hướng xã hội chủ nghĩa; vậy chúng ta có tổng 41 năm là chỉ có DN nhà nước, dưới đó là mô hình hợp tác xã cũng của nhà nước. Đương nhiên rồi nhà nước nắm toàn bộ tư liệu sản xuất (Lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên) . Tư liệu sản xuất lớn như đất đai (tài nguyên thiên nhiên) giờ nhà nước vẫn sở hữu (người dân có quyền sử dụng)

Đây thực sự là tiêu chí cực khó đối với chúng ta vì nó đã ăn sâu vào văn hóa rồi, giống như một thói quen, rất khó thay đổi. Chính vì vậy hiện chỉ có những nước nhỏ, có giao thương ít với chúng ta hoặc chẳng mấy khi kiện chúng ta bán phá giá mới công nhận chúng ta có nền kinh tế thị trường trong khi các nước chúng ta xuất khẩu vào nhiều rất cần được công nhận như Mỹ và EU thì vẫn chưa công nhận.

5. Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định về giá cả, sản lượng của các doanh nghiệp (Thị trường Hàng hóa & Dịch vụ)

Chỉ mới năm trước thôi chúng ta mới có khái niệm cho phép người dân được sản xuất, mua bán hàng hóa/dịch vụ mà nhà nước không cấm thay vì chỉ được phép đối với hàng hóa/dịch vụ được phép. Đây là hai cách tiếp cận trái ngược hẳn nhau, một danh sách những thứ không được phép và một danh sách những thứ được phép (vốn rất dài và thay đổi rất nhanh).

Để kiểm soát lạm phát và nâng cao mức sống dân cư thì chính phủ cũng áp giá trần một số hàng hóa/dịch vụ thiết yếu như điện, xăng dầu,… cũng như áp giá sàn một số thứ khác. Tóm lại chính phủ có kiểm soát giá và đương nhiên chính phủ có kiểm soát sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước nơi CP có sở hữu.

Ngoài ra vì chính phủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước mà ngành nghề kinh doanh đó có khi khối ngoài nhà nước cũng kinh doanh dẫn tới việc chính phủ can thiệp một cách gián tiếp tới giá và sản lượng. Ví dụ như trong lĩnh vực viễn thông ta thấy có Viettel trực thuộc bộ quốc phòng, Vinaphone thuộc tập đoàn bưu chính viễn thông VNPT của nhà nước, Mobiphone trực thuộc Bộ TTTT cũng của nhà nước; vậy thì làm gì có cửa cạnh tranh cho các công ty viễn thông tư nhân kiểu như Vietnamobile.

Khi có một văn bản nào đó cần ban hành thì quy trình là Bộ dự thảo để xuất lên quốc hội. Bộ quản lý sẽ thu thập ý kiến từ doanh nghiệp trong đó chủ yếu là doanh nghiệp mà bộ quản lý. Điều này tất yếu dẫn tới tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi; không đảm bảo tính công bằng giữa DN nhà nước và DN tư nhân. Năm 2005, Chính phủ thành lập Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước SCIC để quản lý DNNN nhưng nó vẫn thuộc Bộ Tài chính.

Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 3/2/2018 thành lập ủy ban quản lý vốn nhà nước và sau đó chính phủ có nghị định 131 về quy định chức năng của siêu ủy ban này. SCIC trước thuộc Bộ Tài Chính nay trực thuộc ủy ban; Siêu ủy ban này sẽ hoạt động như một doanh nghiệp quản lý vốn theo mô hình tập đoàn kiểu như VIN, FPT nhưng nó trực tiếp thuộc chính phủ (ngang hàng với Bộ tài chính).

Về dài hạn chính phủ sẽ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (bán cho sở hữu tư nhân trong và ngoài nước) và chỉ giữ lại các doanh nghiệp mà chỉ có nhà nước mới dám làm (do ko có lãi), hoặc các lĩnh vực liên quan tới an ninh quốc gia.

Một nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế tại đó quyết định về sản lượng, giá phụ thuộc hoàn toàn vào quy luật cung cầu. Khi chính phủ sở hữu một doanh nghiệp, chính phủ không thể đảm bảo tính khách quan trong điều hành. Cần không phân biệt doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, không phân biệt doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ngoài nước. Chính phủ chỉ ban hành các quy định để tạo môi trường pháp lý lành mạnh và sau đó là thực thi một cách kỷ luật thay vì có mà như không có như hiện nay.

5 tiêu chí trên có mối quan hệ ràng buộc với nhau cùng một nguyên nhân bản chất là nhà nước vẫn muốn can thiệp sâu vào thị trường. Do vậy, chúng ta thấy rằng con đường để đi tới được công nhận là nền kinh tế thị trường còn vô cùng gian nan, phải mất rất nhiều năm nữa (có lẽ tới khi bạn về hưu). Đây là vấn đề thuộc về kỹ thuật, không chỉ đơn giản là yêu quý nhau mà công nhận nhau được. Và chừng nào còn thương mại quốc tế thì chừng đó còn có các rào cản thuế quanphi thuế quan; gỡ được rào cản này sẽ xuất hiện rào cản khác.

Kiện chống bán phá giá không phải là tất cả và có khi chi phí để được công nhận có nền kinh tế thị trường không xứng đáng với lợi ích mang lại từ việc tránh kiện chống bán phá giá. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng các chuẩn về nền kinh tế thị trường sinh ra vì nó mang lại lợi ích tối ưu cho nền kinh tế. Chúng ta hướng tới nền kinh tế thị trường không phải là để tránh bị kiện mà là để có được lợi ích khi có một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.

Vu kien ca batra
Hồ sơ vụ kiện cá bán phá giá của các chủ trang trại cá da trơn Mỹ (CFA) lên DOC (Bộ thương mại Mỹ) đối với cá Tra và cá Basa của Việt Nam

Tham khảo về hồ sơ cuộc chiến cá Tra và Basa: CV03-52-8.0-2013-07-08-11274111

Marketing: Thế nào là bán phá giá ?

Comments

comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here