Lý thuyết bàn tay vô hình ra đời từ thế kỷ 18 bởi Adam Smith; nó rất thịnh hành cho tới 1933. Giai đoạn đại khủng hoảng 1928-1933 khiến cho lý thuyết bàn tay vô hình bị thất sủng. Thay vào đó là lý thuyết bàn tay hữu hình của Keynes.
Trong entry trước chính phủ dùng bàn tay hữu hình để điều tiết nền kinh tế. Nhược điểm thấy rõ có thể thấy như sau:
– Mô hình kinh tế là giả định: rất nhiều giả định đầu vào khiến cho sai số ở đầu ra có thể rất lớn. Nên cùng một tình huống nhưng các nhà kinh tế khác nhau có thể cho ra các quyết định khác nhau. Chẳng có công thức hay quy trình gì cho việc này.
– Mỗi tác động đều ảnh hưởng tới nhiều thông số khác nhau nhưng ta lại thường chỉ tập trung vào một thông số chính.
– Độ trễ chính sách: kết quả của tác động diễn ra sau vài tháng khiến cho chính phủ không biết nên tác động cấp độ như thế nào hay biết được là có phải đúng là kết quả diễn ra thực sự là do tác động của chính sách. Năm 2010 vì lạm phát tăng cao; chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa và thắt chặt tiền tệ. Kết quả là suy thoái cho tới tận ngày hôm nay. Hiện nay chính phủ lại thực hiện nới lỏng tiền tệ nhưng vẫn chưa thấy động tĩnh gì.
Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế như sau:
Sốc ảnh hưởng tới tổng cầu:
Nếu như sốc ảnh hưởng tới tổng cầu làm cho tổng cầu dịch phải. Khi đó sản lượng mới Y lớn hơn sản lượng cân bằng Y*
Khi sản lượng mới lớn hơn sản lượng cân bằng làm cho thất nghiệp ít hơn vì có nhiều việc làm hơn. Ít người thất nghiệp hơn thì khả năng đàm phán của người lao động tốt hơn nên lương w sẽ tăng. Lương w tăng làm cho chi phí tăng khiến cho đường tổng cung dịch trái tới C
Tại điểm C này sản lượng về mức cân bằng nhưng giá đã tăng; có nghĩa là đã lạm phát.
Ngược lại khi tổng cầu giảm sẽ làm cho thất nghiệp tăng; áp lức tăng lương giảm khiến cho chi phí sản xuất giảm; đường tổng cầu AS ngắn hạn dịch phải và lại trở về điểm căn bằng C.
Tại điểm C sản lượng về sản lượng cân bằng nhưng giá đã giảm từ P* xuống P2.
Sốc ảnh hưởng tới tổng cung:
Trong trường hợp suy thoái do giảm tổng cung ngắn hạn (dịch trái) ví dụ như giá xăng tăng. Khi sốc cung bất lợi làm cho tổng cung dịch trái; điểm cân bằng mới là điểm B có sản lượng thấp hơn và giá cao hơn. Tại điểm này thất nghiệp sẽ gia tăng khiến cho áp lực tiền lương giảm (vì lúc này khả năng thương lượng của người thuê lao động sẽ cao hơn do thừa cung).
Tiền lương giảm làm cho chi phí yếu tố đầu vào giảm; làm đường tổng cung tăng, đường tổng cung dịch phải về điểm cân bằng ban đầu A.
Trong trường hợp sốc tổng cung làm tổng cung ngắn hạn dịch phải khiến sản lượng mới cao hơn sản lượng cân bằng Y* và giá thấp hơn. Thất nghiệp giảm, áp lực tăng lương khiến cho chi phí yếu tố đầu vào doanh nghiệp tăng, sản lượng giảm; đường tổng cầu tăng trở lại; dịch về điểm cân bằng ban đầu với sản lượng cân bằng Y* và giá cân bằng P*.
Tóm lại yếu tố khiến cho nền kinh tế tự điều tiết là thất nghiệp. Thất nghiệp ảnh hưởng tới tiền lương. Tiền lương ảnh hưởng tới chi phí sản xuất. Cuối cùng là ảnh hưởng tới sản lượng. Với việc sốc phía cầu thì đường cung dịch chuyển; với việc sốc phía cung thì đường cung tự dịch chuyển.
Entry sau Kinh tế học (P10: Bàn tay hữu hình) về vai trò của chính phủ trong ổn định kinh tế trong ngắn hạn
[…] khi Adam Smith phát biểu ra trong cuốn “Của cải các quốc gia” năm 1776. Bàn tay vô hình giúp vận hành thế giới tự nhiên và cả thế giới con […]
[…] trại. Thế kỷ 17 là thể kỷ có rất nhiều các nhà kinh tế nổi tiếng như Adam Smith, David […]
A ơi ở phần “Sốc ảnh hưởng tới tổng cung”, a có viết 1 câu là: “Tiền lương giảm làm cho chi phí yếu tố đầu vào giảm; làm đường tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch phải về điểm cân bằng ban đầu A.” Ở đây e nghĩ là đường tổng cung chứ không phải đường tổng cầu ạ.
cảm ơn em; mắt tinh quá; anh đã sửa lại.