Việc hiểu các kiến thức cơ bản sẽ giúp ta có cái nhìn đúng đối với những số liệu có được. Ví dụ như bài viết Tín dụng âm, ngân hàng vẫn lãi nghìn tỷ trên vnexpress có ghi lãi của Vietcombank là 1.663 tỷ (kô rõ trước hay sau thuế), trong bài viết không nêu rõ vốn chủ sở hữu, cơ cấ nợ, cơ cấu tài sản; tạm lấy thông tin từ các nguồn khác:
Năm 2010 vốn chủ sở hữu của Vietcombank là 20.699 tỷ, 2012 không có số liệu cứ lấy khoảng 22.000 tỷ vì 2011 Vietcombank có ROE 17% nên khả năng sẽ tăng vốn chủ sở hữu. Như vậy ROE của vietcombank 2012 là 1.663/22.000 =5,3%. ROE = 5,3% là quá thấp, thế nhưng báo chí vẫn giật tít là Lãi Khủng. Trong trường hợp nợ xấu của Vietcombank là 10% thì có nghĩa là lãi này không những không bảo toàn được vốn chủ sở hữu mà còn có nguy cơ âm thêm 10% nữa.
Hiệu quả sử dụng tài sản ROA năm 2011 của Vietcombank là 1,3%. Chỉ số này cho thấy khả năng chuyển tài sản thành lợi nhuận ròng. Vietcombank có hệ thống các chi nhanh giao dịch đồ sộ, máy móc nhiều,…nên cũng khó có thể biết là tốt hay xấu, nếu như có ROA của các ngân hàng khác thì ta sẽ dễ so sánh hơn. Vietcombank có 80% là vốn nhà nước do vậy sẽ có nhiều lợi thế như nhà đất hoặc tiền của nhà nước để ở tài khoản của Vietcombank với lãi suất thấp thay vì các ngân hàng nhỏ khác phải trầy trật kiếm từng đồng huy động.
26. Lợi nhuận sau thuế trên mỗi nhân viên:
Chỉ số náy phản ánh số tiền trung bình mà mỗi nhân viên kiếm được. Chỉ số càng cao thì đương nhiên là càng tốt vì nó thể hiện được hiệu suất làm việc. Nhưng việc so sánh cũng phải diễn ra trong cùng một ngành thì mới có thể nói chỉ số đó là tốt hay xấu. Năm 2012 Vietcombank có khoảng 12.000 người; như vậy trung bình mỗi nhân viên mang lại lợi nhuận khoảng 120 triệu.
Các biến thể khác như Doanh thu trên mỗi nhân viên, Lợi nhuận trên mỗi nhân viên bán hàng,….
27. Phân tích điểm hòa vốn
Định nghĩa chung : Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó lợi nhuận tạo ra bằng với chi phí cố định.
Giả sử như một công ty sản xuất 3 mặt hàng A, B và C. Cho dù có sản xuất hay không thì công ty vẫn chịu một khoản chi phí hàng tháng gọi là chi phí cố định như nhà xưởng, máy móc, nhân công, thuế môn bài,..đó gọi là chi phí cố định.
Lợi nhuận ròng của mỗi mặt hàng tương ứng là A1, B1, C1. Chi phí cố định phân bổ vào từng mặt hàng là A2, B2, C2. Lợi nhuận ròng = Giá – Chi phí biến đổi trung bình.
Điểm hòa vốn của A = A1/A2.
Ví dụ chi phí cố định của A là 1 triệu; giá bán của A là 10.000 đ; chi phí biến đổi của A là 8 000 đ – > lợi nhuận của A là 10.000-8.000=2.000 đ -> Điểm hòa vốn của A = 1 triệu/ 2000 đ = 500 đơn vị sản phẩm. Có nghĩa là chúng ta phải bán được 500 mặt hàng A mới tới điểm hoà vốn, sau đó bán càng nhiều càng tốt vì ta đã không còn phải trừ chi phí cố định nữa.
Trước khi tung sản phẩm ra thị trường công ty sẽ phải nắm được điểm hoà vốn. Nếu như dung lượng thị trường < 500 cái thì không nên đầu tư vào A làm gì.
Một công ty thương mại thì sẽ có nhiều sản phẩm nhập vào bán ra vì vậy khó tính được như vậy.Thường ta sẽ tính Doanh số hoàn vốn:
Ví dụ:
Gọi doanh số tại điểm hòa vốn là X
Lợi nhuận trung bình là 20%
Chi phí cố định là 8 tỷ:
Vì doanh số tại điểm hoà vốn là điểm mà tại đó Lợi nhuận sinh ra từ doanh số = Chi phí cố định
– > Điểm hòa vốn X = 8 tỷ/20% = 40 tỷ.
28. Nhu cầu thị trường
Nhu cầu thị trường = Doanh số khách hàng cũ + Doanh số khách hàng mới
Ví dụ như năm 2012 một doanh nghiệp có doanh số từ khách hàng cũ là 20 tỷ, doanh số từ khách hàng mới là 5 tỷ. Thì tổng nhu cầu thị trường của công ty đó là 25 tỷ. Giả sử như năm 2011 nhu cầu thị trường của DN đó là 20 tỷ thì có nghĩa là thị trường đó đang có tăng trưởng, công ty có thể tiếp tục đầu tư. trường hợp ngược lại năm 2011 là 30 tỷ thì có nghĩa là nhu cầu thị trường đang giảm. Lý do giảm có thể rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tín hiệu giảm là tín hiệu cảnh báo.
29. Nhu cầu thị trường tiềm năng
là con số mang tính dự báo về tổng nhu cầu thị trường. Người ta có thể mua số liệu từ các công ty chuyên về thống kê hoặc tự tính toán lấy. Ví dụ thông qua đặc điểm sử dụng, tần suất thay thế, số lượng người ở lứa tuổi dùng, dân số của vùng địa lý bán hàng, thói quen mua sắm, mức thu nhập của khách hàng hướng tới, sản phẩm thay thế,…
Trước khi một doanh nghiệp nào đó khởi nghiệp kinh doanh hoặc tung ra một sản phẩm mới thì đầu tiên phải xác định phân khúc của mình sẽ tham gia, phân khúc đó hiện có dung lượng bao nhiêu, phân chia miếng bánh đó đang ra sao, khả năng tăng trưởng như thế nào, lợi thế cạnh tranh của ta là gì để cạnh tranh với đối thủ,… Nếu như dung lượng thị trường thấp, đối thủ nhiều thì đó là thị trường khó khăn.
Để hiểu sâu hơn cần phải nghiên cứu thêm cả quan hệ cung cầu và giá. Giá tăng thì cầu giảm, cung tăng. Giá giảm thì cầu tăng cung giảm. Đôi khi doanh nghiệp có thể giảm lợi nhuận để tăng lợi thế về giá, người chưa có nhu cầu mua ở mức giá P1 có thể sẽ mua ở mức giá P2 thấp hơn.
30. Định giá hàng bán
Định giá hàng bán là việc doanh nghiệp phân tích để xác định giá bán ra cho một mặt hàng nào đó.
Thông thường ta sẽ thấy mấy chiến lược định giá sau:
– Hớt váng: áp dụng khi nhu cầu lớn nhưng cung ít. Chiến lược này được apple đặc biệt sử dụng để đạt lợi nhuận > 30% trên mỗi sản phẩm.
– Thâm nhập thị trường: áp dụng khi sản phẩm vào thị trường mới, nhiều đối thủ, doanh nghiệp chấp nhận lợi nhuận ít để cho khách hàng chấp nhận. Chú ý nếu như doanh nghiệp bán giá dưới chi phí làm ra sản phẩm đó thì gọi là phá giá, phạm luật.
– Căn vào chi phí : doanh nghiệp tính ra tổng chi phí sau đó cộng thêm lợi nhuận mong muốn
– Căn vào giá trị sử dụng: doanh nghiệp tính giá trị tạo ra bằng tiền trong toàn bộ vòng đời sản phẩm mà người sử dụng có được. Thông thường doanh nghiệp luôn muốn bán giá bằng với Giá trị sử dụng nhưng cũng phải căn vào giá mà người tiêu dùng có thể chấp nhận dược.
– Căn vào lợi nhuận: Ví dụ như doanh nghiệp cần đạt ROE là x, thông qua số lượng có thể bán, chi phí cố định và biến đối để tính ra giá bán có thể đạt được lợi nhuận từng đó.
– Định giá khi người tiêu dùng đánh đồng giữa chất lượng và giá: Nhiều người nghĩ rằng giá cao thì sản phẩm chắc chất lượng. Người bán sẽ căn vào suy nghĩ này để bán giá cao, đặc biệt là với những hàng hóa đặc thù khó đo đếm giá trị làm ra.
Việc định giá còn phải căn vào Nhu cầu thị trường nữa vì vòng đời sản phẩm chỉ có giới hạn nhất định. Nếu như hết vòng đời mà chưa đạt tới điểm hòa vốn thì định giá có vấn đề, hoặc chất lượng sản phẩm khiến không thể định giá cao hơn.
31. Quan hệ nhân quả giữa chi phí quảng cáo và doanh số bán hàng
Có nhiều mặt hàng mà không quảng cáo thì không bán được hàng đặc biệt là hàng tiêu dùng. Doanh nghiệp có thể tính được mỗi phút quảng cáo trên tivi mang lại bao nhiêu doanh số tăng trường. Tương tự với các hình thức quảng cáo khác như internet, báo chí, gọi điện thoại, gửi tờ rơi, ..Mỗi một đặc thù mặt hàng sẽ phù hợp với các loại hình quảng cáo khác nhau, nếu tính được quan hệ nhân quả giữa mỗi loại hình quảng cáo đối với sản phẩm mình đang bán sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng quyết định.
32. Mối quan hệ giữa doanh số và vị trí, diện tích trưng bày
Các siêu thị đặc biệt quan tâm tới thông số này. Thông qua thống kê bán hàng mà hiện nay đều tự động, họ sẽ tính được mặt hàng nào bán chạy và vì sao. Họ sẽ tính được vị trí nào trong siêu thị mà để hàng cơ hội bạn sẽ cao hơn. Thông thường họ sẽ để hàng bán chạy ở cuối cùng để khách hàng phải đi qua những mặt hàng bán không chạy để tới đó, biết đâu khi đi qua những mặt hàng này khách hàng lại xuất hiện nhu cầu.
Các mặt hàng có doanh số ít thì phải thử nhiều cách khác nữa như là tăng diện tích bán hàng, giảm lợi nhuận để giảm giá, mua 1 đổi 1…Nếu như cuối cùng doanh số vẫn thấp không bù đắp được chi phí cố định thì siêu thị sẽ dẹp mặt hàng đó đi.