(update : 29/12/2017)
Trong các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp thì nhân lực và vốn là hai yếu tố chính, doanh nghiệp tìm kiếm các yếu tố đầu vào trên các thị trường nhân lực và thị trường vốn gọi chung là thị trường các yếu tố đầu vào. Trong các học thuyết thương mại cổ điển ban đầu còn chỉ coi nhân lực là yếu tố chính (có lẽ do đất hoang hồi đó còn nhiều); sau đó khi tư bản ngày càng đóng góp quan trọng vào việc gia tăng năng suất thì có thêm yếu tố vốn. Trong các nguồn thu nhập của người lao động thì lương là yếu tố chính và đều; có thu nhập họ mới có chi tiêu để từ đó có lượng cầu cho hàng hóa/dịch vụ của DN. Việc này tạo ra một vòng tròn khép kín.
Một người thất nghiệp là người trong độ tuổi LĐ ở tuần trước cuộc điều tra không có việc làm và đang nỗ lực tìm việc. Thất nghiệp có nghĩa là sống bằng tiết kiệm hoặc trợ cấp; nó ảnh hưởng trực tiếp tới tổng thu nhập và nó cũng làm người lao động ngày càng trở nên yếu thế và từ đó lại càng khó tìm việc. Để chống lại thất nghiệp trong khi lại muốn ổn định hay tăng thu nhập, người lao động nhảy từ thị trường lđ của ngành này sang ngành khác, từ cấp độ này sang cấp độ khác. Tổng hợp thì thất nghiệp có hai nhóm chính là Thất nghiệp tự nhiên và Thất nghiệp biến động trong ngắn hạn.
1. Tình hình việc làm tại Việt Nam:
Bảng dưới là bảng điều tra lao động và việc làm quý 3 năm 2013 và Quý 3 năm 2014
Nguồn: Tổng cục thống kêTỷ lệ thất nghiệp thanh niên là những người trong độ tuổi 15 tới 24.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi LD: nữ 15-54; nam 15-59.
Cập nhật 6 tháng đầu năm 2019
Người thiếu việc làm là người trong tuần trước cuộc điều tra có việc làm nhưng dưới 35 h/tuần và sẵn sàng làm thêm giờ. Tương tự như khái niệm thất nghiệp thì nếu như anh ta làm dưới 35h nhưng không có nhu cầu làm thêm giờ thì anh ta không phải là người thiếu việc làm.
Một người trong độ tuổi lao động hiện không có việc làm nhưng không có nhu cầu tìm việc thì không nằm trong lực lượng lao động. Nếu anh ta bỗng nhiên có nhu cầu thì có nghĩa là anh ta đã tham gia vào thị trường lao đồng.
Như vậy một điểm quan trọng để được là người thất nghiệp hay thiếu việc làm là anh ta có nhu cầu tìm việc hay có nhu cầu làm thêm giờ hay không.
Tỷ trọng lao động làm công ăn lương là 34%. Có nghĩa rằng 66% là tự doanh bao gồm nông dân, kinh doanh hộ gia đình, chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư,…
2. Tại sao tỷ lệ thất nghiệp thanh niên lại là chỉ số quan trọng?
Vì thanh niên là lực lượng mới bắt đầu gia nhập thị trường lao động. Là lực lượng có sức khỏe, khó kiềm chế bản thân. Khi thanh niên thất nghiệp giai đoạn này họ sẽ không thu được kinh nghiệm làm việc, không có tích lũy. Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên cao thường đi kèm với các tệ nạn xã hội cao.
3. Nguyên nhân của thất nghiệp
Dân số dược chia ra làm các loại sau trên góc độ việc làm:
Thất nghiệp tự nhiên là gì?
Giống như các thị trường khác, thị trường lao động cũng có cung và cầu: Lý tưởng thì cung cầu sẽ gặp nhau tại E1; khi đó thị trường lao động cân bằng hoàn hảo và hoạt động hiệu quả nhất. Tuy nhiên vấn đề là thông tin không hoàn hảo; người thuê lao động không biết ai là người anh ta nên thuê để vừa hiệu quả vừa với lương thấp nhất; người lao động thì không biết được nên làm thuê cho ai để có mức lương cao nhất Ở hình bên trái trên: giả định thị trường có 3 người tìm việc với mức lương tối thiểu có thể làm được lần lượt là 3,4 và 5 đồng tạo ra nguồn Cung LĐ; có 3 người muốn thuê lao động với mức lương tối đa cũng lần lượt là 3,4 và 5 đ tạo ra nguồn Cầu LĐ.
3 người ở bên cung đã kết hợp hoàn hảo với 3 người ở bên cầu Tuy nhiên do thông tin là không hoàn hảo nên tạo ra tình huống phổ biến ở hình bên phải. Khi đó người có kỳ vọng lương tối thiểu hơn 3 đ đã tìm được việc lương 5 đ; anh ta được lợi 2 đ trong khi người thuê lao động bị thiệt đi 2 đồng. Điều này gây ra hệ quả là người lao động có kỳ vọng tối thiểu 5 đ đã không thể kết hợp được với nhà tuyển dụng có mức lương muốn trả tối đa là 2 đồng.
Người lao động có kỳ vọng lương tối thiểu 5đ lúc đó sẽ đợi chờ tìm việc khác, thời gian này anh ta trở thành người thất nghiệp tạm thời. Thị trường có hàng nghìn người như anh ta, họ tạo ra một phần của thất nghiệp tự nhiên.
Thất nghiệp tự nhiên còn do đâu ?
Một thị trường lao động là kết hợp của nhiều thị trường của các ngành nghề khác nhau. ví dụ như thị trường lao động ngành Tài chính – Ngân hàng, thị trường ngành xây dựng,…
Lý tưởng nhất là nếu như nhu cầu cuối năm 2014 cho khối công nghiệp và xây dựng tăng thêm 1000 người trình độ đại học thì thời điểm này cũng có một lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường tương ứng. Để sinh viên ra trường được thì 4 năm trước đó học sinh cấp III phải chọn ngành này.
Do vậy mới có chuyện là hàng năm Bộ GD phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường đại học. Nếu như phân bổ này đúng thì sẽ đạt được điều trên. Tuy nhiên thường thì dự đoán cho 4 tới 5 năm tới là việc hết sức khó khăn.
Học sinh cấp III lựa chọn ngành nghề thường theo sự tăng trưởng của nghề hiện tại; ví dụ ngân hàng làm ăn tốt thì thi vào khối ngân hàng, xây dựng làm ăn tốt thì thi xây dựng. Nhưng chúng ta cũng thấy rõ là giữa hiện tại và 5 năm tới là hai bức tranh hoàn toàn khác nhau. Cơ cấu ngành nghề sinh viên ra trường mỗi năm luôn lệch rất lớn so với nhu cầu thực tế.
Ở mỗi giai đoạn thường là chu kỳ 5 năm, chính phủ có các chính sách cơ cấu ngành nghề khác nhau khiến lượng cầu lao động dịch chuyển từ ngành này sang ngành khác tạo ra một lực lượng thất nghiệp tạm thời do cơ cấu. Lực lượng này sẽ được đào tạo lại để chuyển dịch ngành nghề.
Nghiên cứu thêm bài chỉ số vĩ mô trong dài hạn để thấy rõ về thất nghiệp do nguyên nhân tiền lương tối thiểu, tiền lương hiệu quả.
Thất nghiệp chu kỳ là gì ?
Đây là loại hình thất nghiệp do ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế, là thất nghiệp biến động trong ngắn hạn. Tròng bài các trạng thái của thị trường thuộc phần 9 của Kinh tế học ta thấy chu kỳ kinh tế có đi lên đi xuống; khi đi lên thì cầu lao động tăng và khi đi xuống thì cầu lao động sẽ giảm.
Thất nghiệp khiến cho nguồn lực xã hội không được sử dụng hiệu quả. Đáng nhẽ anh ta có thể làm ra X giá trị khi lao động thì nay anh không tạo ra giá trị gì và còn tiềm tàng một hiểm nguy về tệ nạn xã hội. Thất nghiệp cũng có ảnh hưởng kép tới sản lượng quốc gia GDP.
Khi giảm thu nhập đi 10 đ, anh ta sẽ giảm chi tiêu đi 9đ làm giảm lượng cầu hàng hóa của nền kinh tế đi 9đ, làm lượng cung hàng hóa cũng giảm đi 9 đ, làm giảm thu nhập người lao động thêm 8đ…Cứ như vậy nó giống như số nhân tiền, thu nhập giảm 10 đ có thể làm giảm sản lượng đi 100 đ. Nghiên cứu thêm về hàm tiêu dùng, mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, Ở Việt Nam tỷ lệ thất nghiệp năm 2014 là hơn 2%; ta thấy rõ là không ổn. Nguyên nhân là ở Việt Nam tỷ lệ thất nghiệp trá hình rất cao do tỷ lệ khu vực nông nghiệp cao; dạng thất nghiệp này rất khó thống kê; cộng với thống kê ở VN có nhiều sai sót cả chủ quan lẫn khách quan.
Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển:
– Lý thuyết cổ điển cho rằng nếu thả nổi tiền lương thì cung và cầu sẽ cân bằng ở một mức tiền lương mà không có thất nghiệp. Nhưng lương ở mức cân bằng thường thấp hơn số tiền tối thiểu để người lao động tái tạo sức lao động.
– Tuy nhiên tiền lương thường bị mắc ở điểm cao hơn điểm cân bằng do 1.Tiền lương tối thiểu 2.Công Đoàn và 3.Tiền lương hiệu quả.
Bạn có thể tham khảo thêm các bài liên quan trong kinh tế học để biết rõ hơn các khái niệm trên