Trong nghiên cứu khoa học nói chung khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó người ta đầu tiên xác định quy luật của hiện tượng, theo dõi thực tế xem có đúng quy luật không sau đó điều chỉnh cho đúng thực tế để phát biểu ra các khái niệm các lý thuyết.
Khi thử nghiệm thì người ta sẽ có thử nghiệm phá hủy và không phá hủy. Còn trong kinh tế học thì các nhà kinh tế rất khó khăn khi thử nghiệm vì không thể xây dựng lên trong phòng thí nghiệm cũng không thể mang một nền kinh tế ra làm vật thí nghiệm.
Chính vì vậy các nhà kinh tế sẽ xây dựng các mô hình giả định. Trong các mô hình giả định này các nhà kinh tế sẽ loại bỏ các yếu tố ít quan trọng và chỉ tập trung vào các yếu tố quan trọng. Chúng ta gặp mô hình giả định ở khắp các bài học về kinh tế học, không ngoại trừ sẽ gặp trong chủ đề Thương mại quốc tế này.
Trong lịch sử kinh tế thế giới; đầu tiên các nước chỉ buôn bán trong vùng lãnh thổ của nước đó theo kiểu tự cấp tự túc. Dần dần khi nền sản xuất phát triển, có của ăn của để các nước bắt đầu buôn bán với nhau, khi đó xuất hiện khái niệm Thương mại quốc tế.
Thương mại giữa hai nước xảy ra phải dựa trên điều kiện là hai nước đều cùng hưởng lợi. Mỗi quốc gia lại có những lợi thế sản xuất khác nhau với các mặt hàng khác nhau.
Lý do có thương mại quốc tế xuất phát từ lý thuyết chi phí cơ hội cụ thể là đường cong giới hạn sản xuất đã bàn tới ở Kinh tế học (P2: Chi phí cơ hội)
Lịch sử thương mại quốc tế bao gồm các học thuyết sau:
1. Quan điểm Chủ nghĩa trọng thương (đầu thế kỷ 15)
Trước thế kỷ 15 không phải các tác nhân kinh tế không vận động theo nguyên tắc Kinh tế mà họ vận động nhưng không phát biểu nó một cách cụ thể. Vì không hiểu tại sao nên họ không biết thế nào là tốt thế nào là không tốt và kết quả là hàng nghìn năm trước đó cuộc sống dân cư phát triển tự phát.
Thế kỷ 15 một số nhà kinh tế học hình thành lên lý thuyết kinh tế được coi là đầu tiên gọi là Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương có quan điểm như sau:
- Mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế là Thắng – Thua : Nếu một người có thêm một cân vàng thì người khác mất đi một cân vàng. Của cải chỉ có thể có được thông qua việc phân chia không công bằng, có nghĩa là bóc lột người khác. Giai cấp thống trị vơ vét, bóc lột từ giai cấp bị trị.
- Mối quan hệ giữa hai nước là bảo hộ mậu dịch: Thông qua việc kích thích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu vàng sẽ được chảy vào nước mình.
- Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: Quốc gia càng có nhiều vàng bạc, đất đai, dân cư thì càng giàu có. Quan điểm này kích thích việc một nước gây chiến với một nước khác để cướp bóc vàng bạc, chiếm giữ đất đai và dân chúng.
Chủ nghĩa trọng thương mang tới một kết cục tất yếu là không kích thích sản xuất mà chỉ kích thích chiếm đoạt. Khi Dân số ngày một tăng trong sản xuất không tăng tương ứng thì đời sống người dân sẽ càng ngày kém đi.
2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Năm 1776 Adam Smith đưa ra tác phẩm “Tài sản quốc gia”, đây là tác phẩm kinh điển đưa ra rất nhiều các lý thuyết kinh tế. Trong cuốn này Adam đưa ra thuyết Lợi thế tuyệt đối.
Adam phản đối quan điểm chủ nghĩa trọng thương mà mong muốn tự do hóa thương mại. Thông qua bàn tay vô hình các nước sẽ sản xuất những mặt hàng có lợi thế lớn nhất đối với họ bằng các nguồn lực hữu hạn. Khi đó các nước sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.
Adam cho rằng mỗi một loại hàng hóa đều có khác biệt về chi phí sản xuất. Thời điểm này Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx duy nhất trong mô hình của mình.
Giờ công/Sản phẩm | Nhật Bản | Việt Nam |
Thép | 2 | 6 |
Vải | 5 | 3 |
Ví dụ trong bảng trên ta thấy vì chi phí sản xuất thép ở Việt Nam đắt hơn ở Nhật nhưng chi phí sản xuất vải ở VN lại rẻ hơn ở Nhật vì vậy Nhật bản chỉ nên tập trung sx thép còn Việt Nam chỉ tập trung sx vải.
Bằng cuốn sách của mình, Adam Smith bắt đầu thời kỳ của Kinh tế học cổ điển mà được các chính phủ sùng bái mãi tới thời kỳ của Kynes. Quan điểm của Adam Smith là:
- Mối quan hệ trong các tác nhân kinh tế là Thắng Thắng : Bằng cách tối ưu lợi ích cá nhân các tác nhân kinh tế đã làm gia tăng phúc lợi xã hội (mặc dù họ không chủ ý).
- Mối quan hệ giữa hai nước là cùng phát triển: Mỗi nước có lợi thế riêng vì vậy sản xuất ra các hàng hóa với chi phí khác nhau. Bằng cách trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, mỗi nước sẽ thu được lợi lớn nhất với chi phí thấp nhất.
- Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: là việc người dân của anh ăn gì, mặc gì, có hạnh phúc không chứ không phải là vàng bạc trong két.
Adam Smith cổ vũ xóa bỏ mọi rào cản thương mại ( Hạn ngạch, thuế,..). Đây là một bước chuyển rất lớn, từ bảo hộ mậu dịch chuyển sang tự do thương mại.
3. Lý thuyết lợi thế so sánh (David Ricardo 1817)
Mở rộng thêm lý thuyết của Adam Smith, Ricardo cho rằng các quốc gia cần xác định đâu là mặt hàng có lợi thế so sánh để tập trung vào sản xuất
Giờ công/Sản phẩm | Nhật Bản | Việt Nam |
Thép | 2 | 12 |
Vải | 5 | 6 |
Trong trường hợp này mặc dù là sản xuất vải ở Nhật vẫn rẻ hơn ở Việt Nam nhưng vì:
– Ở Nhật Bản, 1 giờ làm được 2 đv thép và 5 đv vải nên 1 đơn vị thép = 2/5 đơn vị vải
– Ở Việt Nam, 1 giờ làm được 12 đv thép và 1 đơn vị vải nên 1 đơn vị thép=2 đv vải
Như vậy 1 đơn vị thép nếu quy ra vải ở Việt Nam sẽ lớn hơn là ở Nhật bản. Nhật bản nên sx thép và mang sang Việt Nam đổi lấy 2 đv vải còn hơn là sx vải. ngược lại Việt Nam nên mang 2 đv vải sang Nhật để đổi lấy 1 đv thép còn hơn là tự sx thép.
Trường hợp thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi cả hai nước đều cảm thấy có lợi. Nếu như 1 đv thép bằng hoặc lớn hơn 2 đơn vị vải thì Nhật bản sẽ được lợi nhưng Việt Nam lại không được lợi; còn nếu như 1 đơn vị thép < 2/5 đơn vị vải thì Việt Nam lợi nhưng Nhật bản lại không.
Vì vậy hai nước sẽ có buôn bán chừng nào 2/5 đơn vị vải < 1 đơn vị thép < 2 đơn vị vải.
Mở rộng ra giả sử như có 3 nước tham gia vào quá trình sx thì một nước nên chọn một nước có chi phí sx mặt hàng đó cao nhất để xuất khẩu.
Cả hai học thuyết của Adam Smith và David Ricardo đều cần các giả thuyết ban đầu như :
– Lao động không được dịch chuyển tự do giữa các QG (vì nếu dịch chuyển thì sẽ không còn lợi thế nữa),
– Vận chuyển giữa hai quốc gia là bằng 0,
– Chỉ có hai quốc gia và hai mặt hàng trong mô hình
– Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên các thị trường (có nghĩa là có vô số người bán và vô số người mua)
– Công nghệ sx của hai QG là như nhau và không đổi (vì Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx đầu vào duy nhất, bỏ qua các biến khác như công nghệ)
4. Mô hình Heckscher – Ohlin (mô hình H-O)
Mô hình này do hai nhà kinh tế là Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin của thụy điển đồng nghĩ ra vì vậy tên gọi mô hình là nối của hai cái tên.
Mô hình này đưa ra hai yếu tố ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia:
– Mức độ dồi dào và rẻ của các yếu tố sản xuất
– Mỗi một mặt hàng lại cần tỷ lệ các yếu tố đầu vào khác nhau.
Một quốc gia nên xuất khầu các hàng hóa mà mình dồi dào yếu tố sx cho hàng hóa đó và nhập về những hàng hóa ngược lại.
Trường hợp cụ thể vì Việt Nam dồi dào lao động nhưng vốn ít vì vậy nên sản xuất giầy dép, vài,…Còn Nhật bản nhiều vốn nhưng ít lao động thì nên sx thép và nhập về vải.
Trong thực tế thì ngày nay các nước đều theo chủ nghĩa Tân trọng thương có nghĩa là khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ mậu dịch trong nước thông qua các hàng rào thuế quan, kỹ thuật. Vì vậy ta sẽ thấy là thuế xuất khẩu thì luôn thấp thậm chí bằng 0 nhưng thuế nhập khẩu thì lại cao có thể lên tới 100%.
Tại Việt Nam chính phủ sẽ phải xác định mặt hàng xuất khẩu/nhập khẩu tập trung trong từng thời kỳ. Cụ thể từ 2011 tới 2020 Việt nam tập trung nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất, nguyên liệu vì vậy con số này thực tế chiếm 90%; còn lại tiêu dùng là 10%. Đối với xuất khẩu thì chúng ta tập trung vào xuất khẩu các hàng hóa cần lượng lớn lao động (dầy da, may mặc,..) và tài nguyên theo hướng tăng hàm lượng chế biến.