Sự kiện gây nhiều chú ý nhất trong nửa cuối năm 2014 cho tới nay có lẽ là giá dầu. Những người có liên quan tới thu ngân sách thì lo lắng thu ngân sách sụt giảm tương ứng sẽ dẫn tới gia tăng bội chi ngân sách. Người thì cho rằng giá dầu giảm sẽ kích thích việc sản xuất kinh doanh nhờ vậy sẽ thu được nhiều thuế hơn để bù đắp vào lượng giảm. Có tác giả còn mạnh miệng rằng giá dầu giảm sẽ châm ngòi cho suy thoái kinh tế toàn cầu vì người ta không còn mặn mà đầu tư vào khai thác dầu mỏ nữa.
Kết luận khác nhau vì xuất phát từ động cơ của mỗi người khác nhau. Cái gì cũng có hai mặt, anh chú ý tới mặt nào thì đối với anh đó là quan trọng mà thôi.
1. RON 92, RON 95 là gì?
Ở mỗi trạm xăng đều có 2 lựa chọn đó là xăng RON 92 hoặc RON 95 ( cũng ký hiệu là A92 và A95). Xăng A95 thường đắt hơn so với xăng A92 khoảng 1000 đ/lít. Đi xăng A95 ta cảm thấy xe chạy êm và bốc hơn so với A92.
Chỉ số 92 hay 95 gọi là chỉ số octane. RON là viết tắt của Research Octane Number (chỉ số octane nghiên cứu). Ngoài ra còn phương pháp đo octan khác ký hiệu là MON (Moto Octane Number: Chỉ số octane động cơ.
Chỉ số Octan là đại lượng đặc trưng cho khả năng chống sự kích nổ của nhiên liệu. Chỉ số được tính bằng phần trăm của thể tích Iso-octan trong hỗn hợp của nó với n-heptan khi mà hỗn hợp này có khả năng chống lại kích nổ tương đương với khả năng chống kích nổ của nhiên liệu đang khảo sát. 100 là chống kích nổ cao nhất và 0 là thấp nhất.
Hiện tượng kích nổ là hiện tượng mà xăng cháy trước khi mà tia lửa của bugi truyền tới. Các điểm tự bắt cháy này có hướng không trùng với vùng khí đã cháy do tia lửa của bugi. Hiện tượng này làm cho động cơ rung lắc, nóng lên. Vì vậy chỉ số chống kích nổ càng cao thì sẽ càng giảm hiện tượng này từ đó động cơ hoạt động tốt hơn.
Hiện tượng tự kích nổ gây ra do nguyên liệu bị nén quá cao, vì vậy lựa chọn chỉ số nào sẽ căn cứ vào tỷ số nén của mỗi loại động cơ.
Tỷ số nén | Chỉ số Octan tối ưu | Tỷ số nén | Chỉ số Octan tối ưu |
5:1 | 72 | 9:1 | 96 |
6:1 | 81 | 10:1 | 100 |
7:1 | 87 | 11:1 | 104 |
8:1 | 92 | 12:1 | 108 |
2. Lọc hóa dầu là gì?
Trong mỏ dầu không có sẵn các loại xăng, dầu cho ta cứ hút lên là sử dụng. Vì vậy giữa dầu thô hút lên từ mỏ tới bình xăng của ô tô là một quá trình bao gồm hai giai đoạn là Lọc dầu và Hóa dầu. Giá của dầu thô sẽ khác so với giá xăng, giá dầu hỏa, dầu nhớt… .
Gần dây Mỹ phát triển được phương pháp lấy dầu trực tiếp từ đá phiến mà Mỹ lại là nước có trữ lượng lớn nhất về loại này, đó là nguyên nhân khiến một thùng dâu thô giảm còn dưới 60 usd.
Quá trình lọc dầu đã học hồi cấp 3. . Dầu mỏ là một hỗn hợp của nhiều hidrocarbon khác nhau. Dầu mỏ được tách ra thành các loại khác nhau dựa vào nhiệt độ sôi. Người ta cho dầu vào các tháp hình trụ cao, do nhiệt độ sôi khác nhau nên dầu thô bị tách ra làm các lớp chất lỏng khác nhau.
Dưới 180 độ là phân đoạn xăng dùng cho nhiên liệu động cơ (máy bay, ô tô, xe máy,…)
Từ 180 độ tới 250 độ là phân đoạn dầu lửa được dùng làm dầu hỏa dân dụng, động cơ phản lực.
Từ 250 độ tới 350 độ là phân đoạn gasoil nhẹ dùng làm nguyên liệu cho động cơ diesel.
Từ 350 độ tới 500 độ là phân đoạn gasoil nặng hoặc gọi là phân đoạn dầu nhờn được dùng làm dầu bôi trơn
Trên 500 độ là phân đoạn cặn dùng làm nhựa rải đường, nhiên liệu đốt lò.
Hóa dầu là quá trình làm gia tăng chất lượng, thay đổi tính năng của nguyên liệu đã qua lọc. Bằng cách cho vào các phụ gia, các chát xúc tác người ta có thể thu được nhựa, phân bón, hóa chất,…
1 thùng dầu thô sẽ thu được các loại với những tỷ lệ khác nhau vì vậy giá cũng sẽ khác nhau. Dầu thô hút ở các nơi khác nhau, được hình thành từ nguồn gốc khác nhau thì cũng thu được tỷ lệ khác nhau vì vậy giá cũng sẽ khác nhau.

Dầu biển bắc (dầu Brent): khai thác từ hệ thống mỏ Brent và Ninian trên biển bắc. Dầu mỏ sản xuất ở châu Âu, châu Phi và dầu mỏ khai thác ở phía tây của khu vực Trung Cận Đông được đánh giá theo giá của dầu này, nó tạo thành một chuẩn (benchmark) đánh giá dầu.
West Texas Intermediate (WTI) cho dầu mỏ Bắc Mỹ.
Dubai được sử dụng làm chuẩn cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương của dầu mỏ Trung Cận Đông.
Tapis (từ Malaysia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nhẹ Viễn Đông).
Minas (từ Indonesia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nặng Viễn Đông).
Giỏ OPEC bao gồm:
- Arab Light Ả Rập Saudi
- Bonny Light Nigeria
- Fateh Dubai
- Isthmus Mexico (không OPEC)
- Minas Indonesia
- Saharan Blend Algérie
- Tia Juana Light Venezuela
Bảng dưới có giá dầu thô và các chế phẩm để ta hình dung được sự chênh lệch về giá.
Đơn vị tính: USD/thùng, riêng madut: USD/tấn
Chủng loại | BQ tháng11/2014 | BQ 15 ngàytháng 11/2014 | BQ 14 ngày đầu tháng 12/2014 | So sánh | |||
(1) | (2) | (3) | (3)/(2) | (3)/(1) | |||
Mức | Tỷ lệ | Mức | Tỷ lệ | ||||
Xăng RON92 | 87,44 | 89,30 | 73,98 | -15,32 | -17,16% | -13,46 | -15,39% |
Điêzen 0,05S | 93,85 | 96,13 | 81,42 | -14,71 | -15,30% | -12,43 | -13,24% |
Dầu hỏa | 96,41 | 98,99 | 82,47 | -16,52 | -16,69% | -13,94 | -14,46% |
Madut 180cst 3,5%S | 455,69 | 467,46 | 383,99 | -83,47 | -17,86% | -71,70 | -15,73% |
Dầu thô WTI | 76,29 | 77,33 | 64,14 | -13,19 | -17,06% | -12,15 | -15,93% |
1 thùng (barrel) dầu = 158,9873 lít; 7 thùng dầu = 1 tấn dầu.
Nước ta đã và sẽ có 10 nhà máy lọc dầu với tổng công suất 60 triệu tấn/năm~420 triệu thùng dầu/năm. Một số nhà máy lọc dầu rất nổi tiếng là Dung Quất (Quảng Ngãi), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Long Sơn (Bà rịa – Vũng tàu), ..60 triệu tấn/năm là với điều kiện các nhà máy đều đưa vào hoạt động còn hiện tại mới chỉ có nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động với năng lực theo thiết kế là 6,5 triệu tấn/năm~ 6,5×7= 45 triệu thùng/năm.
Con số 45 triệu thùng/năm không là gì vì cả thế giới mỗi ngày đã tiêu thụ 70 triệu thùng.

Bình quân mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 14 triệu tấn dầu thô. Năm 2014 tổng sx là hơn 15 triệu tấn. 15 triệu tấn là khả năng hút tối đa của chúng ta. Việt Nam không phải là OPEC để mà tăng giảm sản lượng nhằm điều chỉnh giá. Nếu có thể hút được nhiều hơn thì ta cũng sẽ sẵn sàng hút nhiều hơn.
Mỹ là bài học nhãn tiền về việc không phải giá dầu có xu hướng tăng mãi do là nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Để tiết kiệm năng lượng sử dụng cho trong nước Mỹ tăng cường nhập khẩu dầu và cấm xuất khẩu dầu. Thế nhưng bây giờ khi có thể khai thác được dầu từ đá phiến với trữ lượng 1000 tỷ thùng, đủ dùng cho Mỹ 400 năm thì giá đã giảm nhiều so với trước dây rồi.
Chúng ta cũng không thể biết được cái bọng dầu ở mỏ bạch hổ có thông với cái mỏ dầu ở đâu đó không nên việc ta cắt giảm khai thác không có nghĩa là ta để dành được cho ta trong tương lai. Vì vậy nguyên tắc là ta khai thác hết khả năng có thể.
Chi phí cho khai thác dầu mỏ tại VN từ 30 tới 70 USD/thùng. Đương nhiên nếu giá dầu thô giảm hơn con số 70 thì một số mỏ dầu đã bắt đầu lỗ. Tuy nhiên ta vẫn phải sx vì xuất khẩu thu về USD còn chi phí hầu hết tính theo VNĐ. Giá dầu thô thế giới khi về tới Việt Nam còn phải chịu nhiều loại chi phí như vận chuyển, bảo hiểm, lưu trữ, thuế nhập khẩu, thuế VAT,..vì vậy giá dầu thô thế giới là 70usd thì về VN cũng lên tới 100 USD.
3. Một nước xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu nguyên liệu Việt Nam thì như thế nào?
Việt Nam vừa là nước xuất khẩu dầu vừa là nước nhập khẩu các thành phẩm sau lọc dầu.
Sơ đồ dưới là sơ đồ đơn giản về mô hình kinh doanh xăng dầu:
Mô hình trên phân ra làm các DN độc lập để ta dễ hình dung, còn thực tế thì có thể một vài DN lại cùng một chủ sở hữu. Các doanh nghiệp sẽ có các hành vi sau:
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu dầu:
DN xuất nhập khầu dầu đơn giản là đơn vị đứng ra thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu và tính phí trên tổng giá trị. Ví dụ nếu DN của bạn không có chức năng xuất khẩu mà bạn lại muốn xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài thì bạn có thể thuê một đơn vị có chức năng này.
Một DN sản xuất xăng dầu có thể kiêm luôn vai trò xuất khẩu dầu. Một DN kinh doanh xăng dầu cũng có thể kiêm luôn chức năng nhập khẩu. Miễn là nhà nước cho phép.
Doanh nghiệp khai thác dầu
Một Doanh nghiệp khai thác dầu ví dụ như liên doanh Việt Nga (viesopetro) nhiệm vụ chính là tìm kiếm mỏ dầu và hút dầu lên. Khi có dầu thô trong tay nếu như không chịu các sức ép khác thì DN đứng trước hai sự lựa chọn.
– Doanh nghiệp có thể xuất khẩu dầu trực tiếp ra nước ngoài thu về ngoại tệ.
– Doanh nghiệp có thể thuê nhà máy lọc dầu trong nước lọc dầu sau đó bán thành phẩm đó cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước. Cách làm này không tạo ra ngoại tệ trực tiếp mà là tiết kiệm ngoại tệ gián tiếp cho nhà nước. Để làm được cách này thì giá bán sẽ phải bằng hoặc thấp hơn so với giá mà DN kinh doanh xăng dầu mua từ nước ngoài.
Doanh nghiệp lọc dầu
Một doanh nghiệp lọc dầu như nhà máy lọc dầu Dung Quất cũng có hai nguồn hàng:
– DN có thể nhận lọc dầu thuê từ DN sản xuất dầu. Giá thành tất nhiên phải làm sao để giá bán cho DN kinh doanh xăng dầu bằng hoặc thấp hơn giá nhập khẩu.
– DN có thể lọc dầu thuê cho các DN khai thác dầu nước ngoài. Để làm được điều này thì chi phí vận chuyển, chi phí lọc dầu cũng phải cạnh tranh được với các nhà máy lọc dầu khác. Tương tự Petrovietnam cũng có thể thay vì xuất khẩu dầu thô thì thuê một DN lọc dầu nước ngoài lọc dầu sau đó bán thành phẩm.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
Đây là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện vì vậy DN muốn kinh doanh xăng dầu phải đáp ứng các điều kiện như số trạm xăng mà DN có trong tay. DN kinh doanh xăng dầu chịu sự quản lý về giá của nhà nước theo thông tư liên tịch 39/2014/TTLT-BCT-BTC ngày 29/10/2014 của liên bộ công thương và bộ tài chính về phương pháp tính giá theo nghị định 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 về kinh doanh xăng dầu.
Cách tính giá như sau:
Giá cơ sở = (Giá CIF + Thuế nhập khẩu + Thuế tiêu thụ đặc biệt) x tỷ giá ngoại tệ + Thuế giá trị gia tăng + Chi phí kinh doanh định mức + Mức trích quỹ bình ổn giá + Lợi nhuận định mức + Thuế bảo vệ môi trường + các loại thuế khác theo quy định hiện hành
Giá CIF = Giá xăng dầu thế giới (Giá platt Singapore) + các chi phí để đưa về Việt Nam. Trong đó giá xăng dầu thế giới là bình quân của 15 ngày liền trước thời điểm tính giá.
Tỷ giá ngoại tệ để tính giá CIF là tỷ giá ngoại tệ bán ra cuối ngày của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, tính bình quân của 15 ngày sát với ngày tính giá của chu kỳ dự trữ xăng dầu bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 31
Trong các tham số tính giá cơ sở thì có 3 tham số bôi đỏ là nhà nước sẽ có những quy định tại từng thời kỳ. Ví dụ chi phí kinh doanh xăng dầu định mức là chi phí vận chuyển, bảo quản, thuê địa điểm, nhân công,….tóm lại toàn bộ các chi phí để đưa tới người tiêu dùng. Chi phí này đối với Xăng đang là 1.050 đồng/ lít.
Quỹ bình ổn thì ai cũng biết rồi. Là khoản nhà nước lấy ra khi giá dầu giảm và bù vào khi giá dầu tăng nhằm bình ổn giá bán lẻ xăng dầu.
Trên nguyên tắc nếu như trên mỗi khu phố đều có trạm xăng của 2 công ty khác nhau trở lên thì 2 công ty này sẽ phải tính giá bán sao cho thấp hơn giá công ty kia nhờ vậy bán được nhiều xăng hơn.
Hoặc nếu như các trạm xăng bán xăng là của các DN khác nhau thì họ sẽ trọn mua xăng của DN bán buôn xăng có giá tốt nhất. Nhờ vậy các nhà bán buôn xăng cũng phải tính giá sao cho bán được.
Nếu các cái nếu trên là hiện thực thì khi giá xăng thế giới giảm từ 100 đô xuống còn 50 đô thì giá xăng tới người tiêu dùng cũng giảm gần tương đương. Nhờ vậy mà mô hình tổng cung tổng cầu mới vận hành được.
4. Mô hình tổng cung tổng cầu phân tích kinh tế vĩ mô
Trong bài về mô hình tổng cung tổng cầu ta biết rằng khi giá biến đổi thì lượng sẽ chạy dọc đường cung, các yếu tố khác thay đổi thì làm đường tổng cung dịch chuyển. Một trong các yếu tố đó là cú sốc dầu mỏ. Khi giá dầu mỏ giảm thì đường cung sẽ dịch phải. Điều này làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên và giá giảm xuống (CPI giảm)
Để điều này xảy ra thì giá xăng dầu bán lẻ phải giảm, giá điện giảm, giá nước giảm, giá vận chuyển giảm, giá lưu kho giảm, …Tóm lại nếu vận hành đúng theo cơ chế thị trường thì chi phí đầu vào của DN sẽ giảm một khoản đáng kể. Điều này kích thích doanh nghiệp giảm giá bán và sản xuất nhiều hàng hóa hơn nhằm tăng doanh thu.
Tổng cầu nguyên tắc cũng sẽ dịch phải vì nếu như giá xăng bán lẻ giảm, giá điện giảm, giá nước giảm, giá vé vận tải hành khác giảm, giá taxi giảm,…thì hộ gia đình sẽ có nhiều tiền hơn. Nhiều tiền hơn thì phải tiêu nhiều hơn.
Kết quả của hai điều này là tổng sản phẩm quốc nội GDP của cả nước sẽ tăng lên.
Sở dĩ nhà nước đang loay hoay mỗi người một ý là vì mối quan hệ đan xen hết sức phức tạp. Nhà nước vừa thu ngân sách từ thuế vừa thu lợi tức từ doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt thấy là giá dầu thô giảm ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách. Nguồn thu ngân sách này nếu lấy từ tăng thuế nhập khẩu để bù đắp hoàn toàn thì cơ bản là sẽ không có điều gì xảy ra cả.
Hiện tại ảnh hưởng của giá dầu thô giảm chưa ảnh hưởng nhiều tới giá bán xăng dầu nhưng về cơ bản thì tâm lý người dân cũng thấy thoải mái hơn khi mà tin tức kinh tế thế giới trở nên tươi sáng hơn nhờ giá dầu giảm. Tâm lý thoải mái hơn thì cũng sẽ chi tiêu nhiều hơn. Chi tiêu nhiều hơn sẽ làm giá tăng. Giá tăng thì DN sản xuất nhiều hơn. Nhờ vậy GDP cũng tăng.
Cá nhân tôi cho rằng với một nước khai thác dầu mỏ như Việt Nam thì thiệt nhiều hơn là lợi. Chúng ta hẳn còn nhớ tới lời nguyền tài nguyên. Một đất nước như VN khi có nhiều dầu mỏ chỉ việc hút lên bán thì các doanh nghiệp sẽ tập trung vào phục vụ cho việc đó. Khi mà lợi tức từ dầu mỏ giảm đi thì doanh nghiệp chính và phụ trợ đều sẽ khốn đốn. Các DN không phục vụ cho mục đích khai thác, lọc và xuất khẩu dầu thì vì ít được quan tâm nên èo uột không có sức cạnh tranh.
Có thể về dài hạn Việt Nam sẽ có lợi khi dần có ý thức bớt dựa vào dầu mỏ hơn.
5. Cuối cùng thì tại sao giá dầu lại giảm?
Dầu là một tài nguyên hóa thạch không thể tái tạo. Giống như Vàng, dầu trên thế giới là hữu hạn. Nhưng tại sao giá dầu không những không tăng mà còn giảm?
Quan hệ cung cầu:
– Tổng cung
Giá giảm có nghĩa là tồng cung dầu mỏ tăng, đường cầu dịch phải. Đường cầu dịch chuyển khi phát hiện ra mỏ dầu mới có trữ lượng đủ lớn, phát triển ra công nghệ mới khiến chi phí khai thác dầu giảm đi,…
Cụ thể là Mỹ đã phát triển ra công nghệ khai thác dầu trực tiếp từ đá phiến thay vì phải mất thời gian để dầu thẩm thấu vào các bọng dầu hoặc là không thể thẩm thấu được do các lực cản.
Chi phí khai thác dầu đá phiến không thể thấp hơn chi phí khai thác đầu mỏ trực tiếp từ bọng dầu vì vậy nó có đồng mức chi phí với các DN khai thác dầu khác. Giả sử lượng cầu không thay đổi, khi lượng cung tăng thì để bán được hàng DN phải giảm giá hoặc là thỏa thuận với nhau cùng cắt giảm sản lượng khai thác.
Không như mọi lần, lần này OPEC vẫn quyết giữ nguyên sản lượng thậm chí còn tuyên bố là nếu ở đâu cắt giảm sản lượng thì OPEC sẽ tăng tương ứng để bù vào.
Phản ứng này của OPEC có thể là có nguyên nhân sâu xa nào đó mà người trong cuộc mới rõ.
Ngoài ra việc Mỹ phát triển được việc hút dầu mỏ từ đá phiến không phải là việc của một vài tháng; đó là việc đã nhiều năm. Nếu đã nhiều năm thì Mỹ chắc chắn phải có một kế hoạch cho việc này rồi.
– Tổng cầu:
Kinh tế thế giới suy thoái liên tục từ 2008 bắt nguồn từ khủng hoảng nhà đất của Mỹ. Gần đây Mỹ từ bỏ các gói nới lỏng định lượng nhờ vậy mà đô la mới tăng giá. Nhưng đô la tăng giá không thể là nguyên nhân của việc giá dầu giảm 1/2 được.
Kinh tế thế giới suy thoái vì vậy tổng cầu dầu mỏ sẽ sụt giảm. Như vậy cho dù sản lượng cung không thay đổi thì giá cũng phải giảm.
Khi giá giảm tới mức 1/2 như hiện nay thì theo nguyên tắc sẽ có chính phủ, doanh nghiệp mua dầu vào tích trữ vì ai cũng biết rằng việc giảm này là chỉ trong ngắn hạn, dài hạn thì dầu sẽ phải tăng. Khi đó tổng cầu sẽ phải tăng bù đắp một phần cho tổng cung tăng.
Sức ép cạnh tranh:
Một DN lớn sẵn sàng bán thấp hơn giá thành sản xuất trong một thời gian dài khiến cho đối thủ không trụ được mà phải rời bỏ thị trường. Sau đó DN lại tăng giá lên để bù đắp vì lúc này chẳng còn ai cạnh tranh nữa.
Tương tự trường hợp này. Lần lượt các doanh nghiệp có chi phí sản xuất lớn, các doanh nghiệp nhỏ có vốn ít sẽ phải rời bỏ thị trường. Khi thị trường chỉ còn những ông lớn với nhau thì sẽ cùng nhau ngồi vào bàn thương lượng để đẩy giá dầu lên
Chính trị
Cho dù không muốn thì không thể không liên hệ sự kiện dầu mỏ giảm với xung đột giữa Nga và các nước phương tây trong năm qua. Việc Nga trong thập kỷ qua dưới sự dẫn dắt của cặp đôi Putin đã phát triển dường nào. Nhưng sự phát triển đó lại đến từ việc phân bổ lại nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia cho hợp lý, công bằng hơn chứ không phải do thực lực kiểu như Mỹ và các nước châu âu.
Xuất khẩu dầu và khí chiếm tới 50% tổng thu ngân sách của Nga. Khi giá dầu giảm đi 1/2 thì có nghĩa là tổng thu ngân sách giảm đi 1/4. Cộng với các áp lực trước đó khiến cho đô la Mỹ chảy ra khỏi nước Nga thì kết cục thấy rõ. Mỹ có thể trụ 10 năm với tiềm lực của mình nhưng Nga thì không thể.
Tóm lại trong cuộc chạy đua này thì tất cả các nước sản xuất dầu bao gồm cả Mỹ đều bị thiệt nhưng có thể nhìn thấy ngay là Mỹ vẫn là nước hưởng lợi.

Xăng là một loại hàng hóa vừa được tiêu thụ ở thị trường yếu tố đầu vào vừa được tiêu thụ ở thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Tại thị trường yếu tố đầu vào: Xăng được bán làm nguyên liệu cho sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. ( vận tải, chạy máy, sản xuất điện)
Tại thị trường hàng hóa và dịch vụ: Xăng được hộ gia đình mua để phục vụ cho nhu cầu đi lại của họ.
Khi giá xăng giảm thì chi phí đầu vào của DN giảm làm cho lợi nhuận của DN tăng lên nếu giữ giá cũ. Trong nền kinh tế thị trường vận hành bởi cạnh tranh, một DN sẽ khơi mào giảm giá để bán được nhiều hàng hơn, các DN khác cũng phải giảm giá theo. Hộ gia đình được hưởng lợi nhờ mua hàng hóa/dịch vụ rẻ hơn.
Khi giá xăng giảm thì cũng làm giảm chi phí mua xăng của hộ gia đình nhờ vậy hộ gia đình có nhiều tiền hơn để mua sắm. Kết quả là tiêu dùng tăng kích thích sản xuất tăng theo. Sản xuất tăng thì DN phải tuyển nhiều lao động hơn nhờ vậy thu nhập của người dân tăng lên.
Kết luận: khi xăng giảm thì sẽ kích thích nền kinh tế sản xuất ra nhiều giá trị hơn (GDP tăng)
Ngược lại, khi giá xăng tăng thì chi phí đầu vào của DN cũng tăng khiến cho DN phải tăng giá bán. Hộ gia đình ít tiền hơn trong khi phải mua hàng với giá cao hơn nên giảm chi tiêu. Kết quả là nền kinh tế sản xuất ra ít hàng hóa hơn.
Yếu tố tích cực của tăng giá xăng dầu là về mặt dài hạn. Xăng dầu là một loại nguyên liệu hóa thạch hữu hạn, khi đốt tạo ra khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính. Giá xăng tăng sẽ kích thích DN tìm ra các loại nguyên liệu thay thế rẻ tiền hơn, thay đổi công nghệ để tiết kiệm nguyên liệu hơn.
Nếu giá xăng giảm trong một thời gian dài thì các máy móc khai thác năng lượng mặt trời, gió, sóng biển,… sẽ không thể bán được. DN không bán được thì không đủ tiền để tái nghiên cứu; làm chậm lại sự phát triển của ngành này.
Trong nền kinh tế mở, nếu như một đất nước có tổng thu từ bán dầu mỏ lớn hơn tổng chi từ mua thì việc tăng giá xăng dầu là có lợi và ngược lại.
Ngày hôm nay đọc tin giá dầu giảm mạnh lại nhớ tới bài viết này của anh. Lôi ra đọc lại vậy
Mình trả lời thêm ở cuối bài nhé
vậy có nên tăng xăng dầu hay k?những yếu tố tích cực về việc tăng xăng dầu?ai giải thích dùm mình đc k,tại có bài làm T.T
Tác giả đã đề cập ở giữa bài viết rồi. Phần cuối là nói về 1 phần ảnh hưởng do chính trị.
Giá dầu giảm ảnh hưởng tới VN như thế nào?
Cuối cùng a lại nói là nó có lợi cho Mỹ.