Trong cuốn “Sát thủ kinh tế” tôi nhớ mãi việc nhân vật sát thủ có nhắc tới việc mình có bằng cấp về kinh tế lượng. Nhiệm vụ của anh ta là tới các nước đang phát triển, khuếch đại tiềm năng để gia tăng số lượng vốn cần vay. Nước cần vay ai cũng muốn vay được nhiều, kẻ đi vay thì muốn cho vay nhiều để kiểm soát cả nền kinh tế và chính trị của nước cho vay. Khuếch đại tiềm năng thì không thể chỉ là các lập luận mà phải là các con số. Đó là nhiệm vụ của kinh tế lượng.
Trong một lọat entry về Kinh tế học, kinh tế môi trường, kinh tế phát triển, Tài chính và tiền tệ, Thương mại quốc tế,.. ta thấy một đặc điểm chung là các lập luận đều mang tính định tính. Có nghĩa là chỉ mang tính định hướng ví dụ như muốn giảm lạm phát thì phải tăng lãi suất, muốn giảm thải thì phải áp dụng phí thải, chuẩn thải,…còn cụ thể tăng bao nhiêu? giảm bao nhiêu? thì không thể.
Trong các mô hình kinh tế ta đã gặp ở các entry liên quan tới kinh tế, các phương trình cung cầu, môi trường, thu nhập chi phí,… đều được khái quát bằng một phương trình bậc 1 một ẩn số y= ax + b. Biểu diễn của phương trình trên đồ thị là một đường thẳng tuyến tính. Việc này sẽ chỉ giúp ta đưa ra các lập luận nhưng không thể chứng minh được. Có những thứ rất bất hợp lý như việc lãi suất tiền gửi của Nhật gần như bằng 0 nhưng sao lạm phát vẫn không tăng? mà theo lý thuyết tài chính tiền tệ thì chính sách tiền tệ càng nới lỏng thì lạm phát càng phải tăng vì giá của tiền quá rẻ.
Kinh tế lượng dựa trên cơ sở người ta nhận thấy là khi xét một cá nhân hay một tập hợp nhỏ thì hoạt động của nó là không có quy luật. Nhưng khi xét một tập hợp lớn tới hạn thì hoạt động của nó lại có quy luật, có quy luật thì có thể biểu diễn bằng toán học.
Ví dụ nếu xét hành vi tiêu dùng của một cá nhân thì ta chỉ có thể nói rằng khi thu nhập anh ta tăng lên thì chi tiêu của anh ta cũng tăng lên mà không thể xây dựng được hàm hay đồ thị biểu diễn. Nhưng nếu xét một tập hợp đủ lớn thì ta có thể xây dựng được hàm chi tiêu dựa vào thu nhập của tập hợp đó với một sai số cho phép.
Bắt đầu từ đây chúng ta sẽ phải dùng đến các kiến thức về xác xuất thống kê, đạo hàm, tích phân, vi phân.
Các bước thực hiện của Kinh tế lượng như sau
B1: Đặt giả thiết về vấn đề cần nghiên cứu:
Giả sử ta cần phân tích mối quan hệ giữa thu nhập Y và chi tiêu C của hộ gia đình. Ta thấy rằng chi tiêu phụ thuộc vào thu nhập chứ không phải thu nhập phụ thuộc vào chi tiêu -> Thu nhập Y là biến độc lập; Chi tiêu C là biến phụ thuộc.
B2: Xây dựng mô hình
Ta tạm cho là hai biến này có mối quan hệ là C= a + bY + u
Trong đó là C là chi tiêu; Y là thu nhập
Khi thu nhập Y = 0 thì chi tiêu C = a. Như vậy a được gọi là tiêu dùng tự định. Có nghĩa là ngay cả trường hợp không có thu nhập đồng nào thì người ta vẫn cứ chi tiêu a.
b gọi là khuynh hướng tiêu dùng cận biên. Ví dụ nếu thu nhập của ta là 10 đ; ta dành 7 đ để chi tiêu thì b = 0,7; nếu ta dành 5 đ cho tiêu tiêu thì b = 0,5. Như vậy b nằm trong khoảng từ 0 tới 1.
Các tổ chức quốc tế khuyến cáo các nước đang phát triển không nên để b > 0,65 vì nếu không sẽ không có tích lũy và kéo theo nhiều vấn đề như nhập siêu.
u : biến đặc biệt gọi là sai số.
B3: Thu thập số liệu và ước lượng tham số:
Giả sử tổng có 20 triệu hộ gia đình cần phải thu thập thông tin để tìm hiểu mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập. Chẳng nhẽ lại đi hỏi cả 20 triệu mẫu? thậm chí nếu như theo dõi hành vi tiêu dùng của 1 năm của mỗi hộ gia đình thì số cần hỏi phải là 12 x 20tr = 240 triệu
Câu trả lời là không thể làm được mà nếu có làm được thì cũng không nên làm. Nguyên nhân là thông tin có đặc tính ngày càng giảm dần; ví dụ 1000 hộ gia đình đầu ta sẽ thu được nhiều thông tin; từ 1000 tới 10.000 thông tin sẽ giảm dần; sau 10.000 ta thấy có thu thập thì cũng chẳng có gì mới.
Dựa vào đặc tính này người ta sẽ lựa chọn ra mẫu; ví dụ như ta thu thập thông tin của 1000 hộ gia đình. Cứ mỗi hộ gia đình ta thu được một cặp số Thu nhập -> Chi tiêu nhờ vậy ta vẽ được bảng dưới.
Trong bảng này ta sẽ có một số khái niệm:
X là thu nhập được gọi là biến độc lập
Y là biến ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên có nghĩa là trước khi hỏi một hộ gia đình A nào đó ta không hề biết kết quả sẽ là thế nào; nó có thể là một số bất kỳ, vì vậy gọi là ngẫu nhiên
Ký hiệu Y|X có nghĩa là Y phụ thuộc vào X.
Kỳ vọng của biến ngẫu nhiên ký hiệu E(Y|X): Kỳ vọng của biến ngẫu nhiên Y đặc trưng cho giá trị trung bình mà biến ngẫu nhiên đó nhận. Như vậy tồn tại duy nhất một E(Y|X) thể hiện mối quan hệ giữa chi tiêu và thu nhập. Ta có thể có được hàm số E(Y|X) = f(x). Đây được gọi là hàm hồi quy
Giữa thu nhập và chi tiêu không có quan hệ hàm số nhưng giữa trung bình chi tiêu và thu nhập lại có quan hệ hàm số. chúng sẽ thấy trên đồ thị một đặc điểm là về cá biệt từng trường hợp thì ta không thể kết luận được gì về mối quan hệ nhưng nếu xét trên tổng thể ta thấy đúng là chi tiêu sẽ tăng lên khi thu nhập tăng lên.
Phương sai : là độ dao động quanh giá trị trung bình. Phương sai càng nhỏ thì càng đồng đều, ổn định; phương sai càng lớn thì càng không ổn định. Trong kinh tế nói chung ta sẽ thấy một quy luật là cái gì dao động càng nhiều (phương sai càng lớn) thì càng nhiều rủi ro nhưng đồng nghĩa lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Trong bất cứ biểu đồ nào như vàng bạc, cổ phiếu, đất đai, chu kỳ kinh tế,… ta cũng thấy quy luật này. Luôn luôn có các dao động quanh một trục. Về dài hạn trục có thể đi lên hoặc đi xuống tùy vào khoảng thời gian khảo sát.
Như vậy ta có công thức tổng quát
Y = E(Y|X) + u
Mà E(Y|X) = a + bX => Y = a + bX + u = ß1 + ß2X + u
Trong đó u là sai số lên hoặc xuống; E(Y|X) là giá trị trung bình. u càng lớn chứng tỏ X càng ít phụ thuộc vào Y; u càng nhỏ chứng tỏ X phụ thuộc nhiều vào Y
Kết thúc bước 3 này ta có được một hàm số thể hiện mối quan hệ giữa hai biến (độc lập và phụ thuộc). Đây là bằng chứng để:
– Kiểm định các lập luận
– Phân tích, dự báo về các đối tượng và mối quan hệ giữa chúng.
Túm lại rất là phức tạp nếu như không nắm được bản chất của vấn đề.
Hóng các phần tiếp theo
Kinh tế lượng số má nhiều quá; muốn viết hao tâm lắm nên anh đã dừng chủ đề này rồi.
Cảm ơn em đã quan tâm.
vd